Theo dự báo của Hiệp hội VASEP, giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2021 đạt 9,4 tỷ USD (+9,6% so với giá trị xuất khẩu ước tính năm 2020 là 8,6 tỷ USD). Bên cạnh các yếu tố hỗ trợ tích cực, ngành thủy sản Việt Nam sẽ đối mặt với rủi ro khi tình hình dịch bệnh sẽ kéo dài cũng như tốc độ phục hồi các kênh tiêu thụ sản phẩm thủy sản Việt Nam tại các thị trường phục hồi chậm hơn dự báo. Tuy nhiên, chúng tôi nhận định giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong năm 2021 sẽ KHẢ QUAN HƠN. Cụ thể, triển vọng ở hai mảng lớn nhất của ngành thủy sản Việt Nam như sau:
- Mảng tôm: tiếp tục
tăng trưởng Nhờ (1)
Tiếp tục tận dụng lợi thế khi sản lượng tôm trong nước ổn định trong khi nguồn
cung của các đối thủ cạnh tranh như Ấn Độ, được dự báo sẽ mất nhiều thời gian để
khôi phục so với mức sản xuất trước thời điểm đại dịch COVID-19. Và (2) Mức thuế
của các mặt hàng tôm nguyên liệu đông lạnh chiếm ~55% tổng cơ cấu sản phẩm tôm
xuất khẩu sang thị trường EU đã chính thức về 0% nhờ Hiệp định EVFTA đã chính
thức có hiệu lực.
- Mảng cá tra: phục hồi
trung bình. Thị trường
Trung Quốc – thị trường xuất khẩu trọng điểm của cá tra Việt Nam đang gặp phải
những khó khăn do chính quyền nước này đang siết chặt các biện pháp kiểm soát
thủy sản nhập khẩu nhằm ngăn chặn sự lây nhiễm của dịch bệnh COVID-19. Tuy
nhiên, chúng tôi tin rằng với thành công trong công tác kiểm soát dịch bệnh
trong nước, thủy sản Việt Nam sẽ sớm được loại bỏ khỏi danh sách kiểm soát của
nước này. Và với kỳ vọng tình hình dịch bệnh tại các thị trường chính như Mỹ,
EU,… dần được kiểm soát, các kênh nhà hàng, khách sạn,… bắt đầu hoạt động trở lại,
kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam sẽ phục hồi
trong năm 2021.
I. NHÌN
LẠI NĂM 2020 – Bức tranh đối lập giữa
mảng tôm và mảng cá
Hoạt động xuất khẩu của mảng Tôm và Cá tra -
hai mặt hàng có giá trị lớn nhất trong tổng cơ cấu ngành Thủy sản Việt Nam
trong năm 2020, ghi nhận kết quả đối lập trong bối cảnh chịu ảnh hưởng chung bởi
diễn biến dịch COVID-19 trên toàn thế giới.
- Giá trị xuất khẩu tôm ghi nhận tăng trưởng tích cực (+12% yoy), nhờ tận dụng cơ hội về nguồn cung tôm trong nước ổn định, trong khi sản lượng của các đối thủ cạnh tranh chính sụt giảm mạnh do ảnh hưởng nặng nề của dịch COVID-19 (Ấn Độ).
- Trái ngược, do chịu ảnh hưởng trực tiếp khi các kênh tiêu thụ chính của sản phẩm cá tra như nhà hàng, khách sạn,… bị hạn chế hoạt động do các biện pháp phòng chống dịch bệnh COVID-19 tại thị trường xuất khẩu, giá trị xuất khẩu mặt hàng cá tra Việt Nam sụt giảm lên đến hai con số (-25% yoy).
II. TRIỂN
VỌNG NĂM 2021 – Bức tranh tươi sáng hơn
1. Mảng
tôm: Tiếp tục tăng trưởng nhờ nguồn cung ổn định và nhu cầu tiêu thụ phục hồi
1.1. Nguồn cung tôm
trong nước được dự báo tiếp tục ổn định
Sau năm 2020, một năm mà các nguồn cung tôm
trên toàn thế giới bị sụt giảm nghiêm trọng bởi ảnh hưởng của dịch bệnh
COVID-19. Theo ước tính tại Hội nghị GOAL 2020, sản lượng tôm nuôi trồng toàn cầu
trong năm 2020 đạt ~3,5 triệu tấn, -10,5% yoy. Bước sang năm 2021, dự báo sản
lượng tôm nuôi trồng của các quốc gia sẽ ổn định trở lại nhờ nỗ lực kiểm soát dịch
bệnh, ổn định sản xuất, sản lượng tôm toàn cầu đạt ~3,8 triệu tấn, tăng ~8,4%
so với năm 2020
|
Ấn Độ là quốc gia xuất khẩu
tôm lớn nhất thế giới, đồng thời cũng là quốc gia nuôi tôm chịu thiệt hại nặng
nề nhất khi đại dịch COVID-19 diễn ra trong năm 2020. Tính đến thời điểm hiện
tại, số ca nhiễm tại Ấn Độ đã giảm dần, nhưng chúng tôi tin rằng, quốc gia
này sẽ mất nhiều thời gian để phục hồi, ổn định lại công tác nuôi trồng và chế
biến tôm trong nước. Trong khi đó, Việt Nam được
dự báo sẽ tiếp tục gia tăng sản lượng tôm trong năm 2021, đạt ~730.000 tấn,
+4% yoy. Do vậy, chúng tôi kỳ vọng, nguồn tôm cung cấp ổn định sẽ là lợi thế
cho các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam tiếp tục gia tăng thị phần tại các
thị trường xuất khẩu.
|
1.2. Giá bán tôm xuất
khẩu phụ thuộc lớn vào tình hình kiểm soát dịch bệnh tại các thị trường tiêu thụ
Năm 2021, giá bán tôm xuất khẩu khả năng cao sẽ
không tăng mạnh, khi nhu cầu tiêu thụ vẫn rất khó dự báo và phụ thuộc rất lớn
vào mức độ hồi phục của các kênh tiêu thụ chính. Trong khi đó, áp lực cạnh tranh
sẽ gia tăng, khi sản lượng tôm toàn cầu được dự báo tăng trở lại, cùng với đó
là sự phát triển của xu hướng đa dạng hoá thị trường xuất khẩu nhằm giảm bớt rủi
ro của các cường quốc xuất khẩu tôm trên thế giới. Với giả định tình hình dịch
bệnh trên thế giới dai dẳng, nhưng mức độ sẽ giảm dần nhờ sự phân phối rộng rãi
hơn của vắc-xin trong năm 2021, các kênh tiêu thụ food services như nhà hàng,
khách sạn, casino, khu du lịch,… sẽ dần phục hồi, chúng tôi nghiêng về kịch bản,
giá tôm xuất khẩu của Việt Nam trong năm
2021 sẽ tăng nhẹ ~5% yoy, trung bình đạt ~9,6 USD/kg.
Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu tôm sang thị trường EU (chiếm ~21% tổng giá trị
xuất khẩu tôm Việt Nam) kỳ vọng được hỗ trợ tích cực bởi Hiệp định EVFTA có hiệu
lực từ ngày 01/08/2020. Khi đó, tôm nguyên liệu đông lạnh (Mã HS: 0306) ngay lập
tức giảm về 0% khi Hiệp định có hiệu lực, trong khi mặt hàng tôm chế biến (Mã
HS: 1605) sẽ được giảm dần về 0% sau 7 năm Hiệp định có hiệu lực, cụ thể là kể từ
ngày 01/01/2027
Bên cạnh các triển vọng tích cực, các doanh
nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam sẽ đối mặt với rủi ro khi thuế suất CBPG sang thị trường Mỹ có thể tăng trong kỳ xem
xét hành chính lần thứ 14 (POR14). Dù vậy, chúng tôi vẫn duy trì sự lạc quan
cho kỳ xem xét sắp tới, với kỳ vọng sản phẩm tôm Việt Nam sẽ tiếp tục nhận được
mức thuế CBPG 0% sang thị trường Mỹ như đã thể hiện tốt trong lần xem xét vừa
qua – POR 13.
2. Mảng cá tra: Nhu cầu gia tăng tại các kênh tiêu thụ chính nhờ tình hình dịch bệnh dần được kiểm soát
Việt Nam là quốc gia có thị phần xuất khẩu cá
tra gần như tuyệt đối trên thế giới, chiếm ~95%, năm 2019 (theo thống kê của Tổ
chức Thương mại thế giới - ITC). Các quốc gia như Ấn Độ, Indonesia, Banglades,
Myanmar hay Trung Quốc từ lâu đã bắt đầu hoạt động nuôi trồng cá tra, tuy
nhiên, do đặc điểm môi trường nước, thời tiết,… thịt cá tra được nuôi tại các
khu vực này có đặc điểm là thịt vàng, do đó, không được ưa chuộng tại các thị
trường xuất khẩu và mới chỉ được tiêu dùng nội địa.
Sản lượng cá tra nuôi trồng tại Việt Nam được dự báo tiếp tục tăng, trong khi sản lượng và giá bán xuất khẩu phụ thuộc lớn vào sức mua của người tiêu dùng tại các kênh tiêu thụ chính. Theo dự báo của GOAL 2020, năm 2021, sản lượng nuôi trồng cá tra trên thế giới sẽ tăng ~11% yoy, đạt ~2,8 triệu tấn, sau khi sụt giảm ~7% yoy trong giai đoạn diễn biến dịch COVID-19 - năm 2020. Riêng sản lượng cá tra nuôi trồng ở Việt Nam năm 2021 được dự báo sẽ đạt ~1,4 triệu tấn, +17% yoy.
Thị trường Trung Quốc được kỳ vọng sẽ là thị trường dẫn dắt
xu hướng hồi phục về nhu cầu tiêu thụ cá tra trên toàn cầu, nhờ thành công
trong nỗ lực sớm kiểm soát được dịch bệnh, cũng như các kênh tiêu thụ chính tại
thị trường này gần như đã hoạt động trở lại bình thường.
Tại thị
trường EU, tương tự với mảng tôm, các ưu đãi thuế từ Hiệp định EVFTA áp dụng
cho các sản phẩm cá tra xuất khẩu sang thị trường này (chiếm khoảng 12% tổng
giá trị xuất khẩu cá tra Việt Nam) sẽ là động lực thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
cá tra trong năm 2021. Cụ thể, thuế suất của tất cả các sản phẩm cá tra sẽ được
giảm về 0% sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực. Như vậy, năm 2021, các mức thuế đối
với các mặt hàng cá tra đã bắt đầu được cắt giảm, nổi bật nhất là mặt hàng cá
tra phi-lê đông lạnh (Mã HS: 030462), mặt hàng này chiếm tỷ trọng ~80% trong tổng
cơ cấu các mặt hàng cá tra xuất khẩu sang thị trường EU, sẽ giảm về mức 2,75%,
mức thuế thấp hơn ½ lần so với thuế suất ưu đãi GSP thông thường.
Tại thị
trường Mỹ, các doanh nghiệp cá tra Việt Nam còn phải đối mặt với rủi ro về
thuế CBPG hành chính lần thứ 16 (POR 16) của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) áp dụng
của sản phẩm cá tra Việt Nam. Tại ngày 28/12/2020, DOC đã công bố kết quả sơ bộ
của kỳ POR 16, thuế suất của toàn bộ các doanh nghiệp cá tra Việt Nam tiếp tục
là 2,39 USD/kg, trong khi đó, VHC và ANV được hưởng mức thuế 0,09 USD/kg. Kết quả
chính thức sẽ được công bố vào khoảng T04/2021. Kết quả cuối cùng của phán quyết
này sẽ có ảnh hưởng nhất định đến lợi thế cạnh tranh của sản phẩm cá tra Việt
Nam khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
|
Trong năm 2021, tình trạng cạnh
tranh với các loài cá thịt trắng thay thế trên thế giới sẽ gia tăng khi hầu hết
sản lượng của cá rô phi, cá minh thái, cá hồi, cá tuyết… đều được dự báo sẽ
tăng trưởng tích cực. Do vậy, giá bán cá tra xuất khẩu của Việt Nam sẽ khó
tăng mạnh. Tuy nhiên, với kỳ vọng về lợi thế giá bán thấp hơn so với các sản phẩm thay thế và nỗ lực của các doanh nghiệp cá tra Việt Nam khi ngày càng tập trung vào sản phẩm chế biến giá trị gia tăng, đáp ứng đầy đủ các điều kiện về an toàn vệ sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc,… sẽ góp phần đẩy mạnh giá trị xuất khẩu biến cá tra Việt Nam năm 2021. |
III. CẬP
NHẬT MỘT SỐ DOANH NGHIỆP NGÀNH THỦY SẢN
Mã
CK |
Vốn hóa (tỷ đồng) |
DT
thuần 12T/2020 (tỷ đồng) |
LNST
12T/2020 (tỷ đồng) |
Tăng
trưởng LNST |
Tỷ
suất LNST |
ROE |
P/E |
VHC |
7,642 |
7.037 |
705 |
-40,2% |
10% |
14% |
10,8 |
·
VHC – doanh nghiệp với thị phần lớn nhất trong
mảng cá tra Việt Nam, với chuỗi giá trị bài bản, cung cấp sản phẩm cá tra chất
lượng cao và sở hữu lợi thế cạnh tranh lớn tại thị trường Mỹ, khi hưởng mức
thuế CBPG 0%, do vậy, khi nhu cầu tiêu thụ tại các thị trường trọng điểm phục
hồi, VHC được kỳ vọng có sức bật mạnh mẽ nhất. ·
Năm 2021, dây chuyền mở rộng sản xuất Collagen
và Gelatin thêm 1.500 tấn thành phẩm/năm chính thức đi vào họat động, +75%
công suất so với năm 2020, tiếp tục đóng góp vào tăng trưởng chung của VHC.
Chúng tôi kỳ vọng, doanh thu mảng này đạt ~1.000 tỷ đồng năm 2021, +60% yoy,
đóng góp ~15% tổng doanh thu của VHC. ·
VHC sở hữu cơ cấu tài chính lành mạnh, nợ vay ở
mức thấp nhấp so với các doanh nghiệp trong mảng. Cùng với dòng tiền dồi dào,
lượng tiền gửi ngân hàng cao, ~1.500 tỷ đồng (Q3/2020), dự kiến mỗi năm công
ty có thể nhận ~100 tỷ đồng lãi tiền gửi. ·
Tháng 1/2021, tổng doanh thu của VHC tăng 31% yoy
lên 632 tỷ đồng nhờ sự tăng trưởng của hầu hết các sản phẩm ngoài sản phẩm
giá trị gia tăng. Trong đó, doanh thu sản phẩm cá tra tăng 15% lên 441 tỷ đồng.
Sản phẩm phụ và chăm sóc sức khoẻ cùng ghi nhận tăng trưởng ba chữ số. Doanh
thu tháng 1 của VHC tăng trưởng ở toàn bộ các thị trường. Thị trường lớn thứ
hai là EU tăng 32% yoy lên 109 tỷ đồng và thị trường số 1 là Mỹ tăng 10% yoy lên
266 tỷ đồng. (chi
tiết) |
|||||||
FMC |
1.672 |
4.415 |
226 |
-1% |
5,1% |
22,37% |
7,4 |
·
Sở hữu diện tích nuôi tôm ~270ha, tương đương
với mức tự chủ 30%, đây là tỷ lệ sở hữu cao tương đối so với các doanh nghiệp
trong ngành, trong khi MPC chỉ mới có thể tự chủ được 10% lượng nguyên liệu đầu
vào. ·
Đầu năm 2021, FMC sẽ triển khai xây dựng nhà
máy chế biến thủy sản Sao Ta, với công suất ~15.000 tấn/năm, nâng tổng công
suất chế biến của công ty lên 35.000 tấn/năm. Nhà máy mới hướng tới tập trung
sản xuất sản phẩm tôm cao cấp, phục vụ thị trường EU – thị trường trọng điểm
mà FMC hướng tới trong tương lai để có thể tận dụng tối đa các cơ hội ưu đãi
thuế từ Hiệp định EVFTA. ·
Cấu trúc vốn của FMC khá an toàn, tỷ lệ D/E thời
điểm Q3/2020 đạt ~0,7, trong đó FMC hoàn toàn không sử dụng nợ vay dài hạn. ·
FMC duy trì mức chi trả cố tức rất đều đặn, ổn
định trong giai đoạn từ thời gian đầu đi vào hoạt động cho đến nay. Với mức
chi trả cổ tức trung bình hằng năm khoảng 2.000-2.500 đồng/cổ phiếu. Chúng
tôi đánh giá đây là một mức chi trả cổ tức khá hấp dẫn đối với nhà đầu tư lựa
chọn đầu tư vào cổ phiếu FMC. |
IV. PHÂN
TÍCH KỸ THUẬT VHC (CTCP VĨNH HOÀN): Vượt xu hướng giảm ngắn hạn
Giá
hiện tại |
Giá
mục tiêu |
Giá mua |
Stoploss |
42.000 |
52.800 |
41.500 |
38.000 |
Đồ thị tuần VHC
Trên đồ thị tuần, VHC duy trì xu hướng tăng bền vững từ năm 2014, khi giá duy trì trên MA 200 tuần. 2 đường MA 200 và MA 50 tuần đều dốc lên, cho thấy giá cổ phiếu tiếp tục xu hướng tăng giá trong dài hạn. Trong giai đoạn thị trường chung giảm mạnh cuối tháng 1/2021, VHC cũng đi vào xu hướng giảm ngắn hạn nhưng tạo đáy tại vùng hỗ trợ mạnh 36.000-37.000 trên MA 50, MA 200 và mốc Pivot P. Như vậy khả năng VHC có thể quay trở lại xu hướng tăng chính trong dài hạn, hướng đến vùng giá 52.800, tương đương mốc Pivot R1.
Đồ thị ngày VHC
Trên đồ thị ngày, VHC đã vượt qua trendline giảm
ngắn hạn từ tháng 12/2020. Các chỉ báo kỹ thuật cũng xuất hiện tín hiệu tăng
giá:
- Giá cổ phiếu vượt lên MA 50 ngày, qua đó nằm trên cả 3 đường MA 20, MA 50 và MA 200
- MACD vượt lên đường số 0
- RSI duy trì trên mức 50
Khuyến nghị:
- Nhà đầu tư có thể mua vào VHC tại vùng giá 41.500 cho mục tiêu 52.800.
- Stoploss được đặt tại 38.000, trường hợp giá giảm dưới nền tích lũy tháng 2 và MA 20 ngày.
Giao dịch mẫu
Giá mua |
41.500 |
Dừng lỗ |
38.000 |
Rủi ro |
-8,4% |
Mục tiêu |
52.800 |
Lợi nhuận |
27,2% |
Tỷ lệ rủi ro:lợi
nhuận |
1:3,2 |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét