Thứ Ba, 31 tháng 3, 2020

Xu hướng thị trường trong đại dịch Covid-19


Trạng thái quá bán của tâm lý được kỳ vọng có thể sẽ mang đến các đợt hồi kỹ thuật mạnh mẽ sau đó như đã từng xảy ra tại các giai đoạn tương ứng. Trên cơ sở biến động của giai đoạn 2008 và 2018, mức biến động kỳ vọng trung bình cho các pha hồi phục kỹ thuật sau các đợt bán tháo mạnh ước tính ở khoảng 35 – 40% tính cho pha giảm mạnh gần nhất. Cũng cần lưu ý rằng các đợt hồi phục này sẽ không đồng nghĩa với việc xu hướng sẽ đảo chiều. Thông thường xu hướng sẽ chỉ thực sự thay đổi khi vấn đề cốt lõi gây ra khủng hoảng tâm lý được giải quyết…

I. Tổng quan diễn biến thị trường trong đại dịch Covid-19
Tâm lý bi quan bao trùm toàn cầu

Những số liệu thống kê cho thấy đại dịch covid-19 đã và đang gây tác động mạnh đến các thị trường tài chính toàn cầu. Làn sóng bán tháo lan tỏa ở hầu hết các thị trường, những đợt giảm mạnh liên tiếp đã khiến các chỉ số chứng khoán thế giới nhanh chóng chạm ngưỡng báo hiệu bước vào thị trường con gấu. Nguyên nhân của tâm lý bán tháo có thể được ký giải bởi các lý do chính:
  • Khủng hoảng tâm lý cộng đồng trước tình hình phát triển của dịch bệnh bởi khả năng lây lan nhanh cũng như mức độ nguy hiểm có thể so với dịch SARS năm 2003.
  • Sự lo ngại về khủng hoảng kinh tế theo chu kỳ 10 năm cũng bùng phát trở lại do chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn và các hệ lụy tới khả năng tăng trưởng kinh tế khi lệnh phong tỏa và đóng cửa biên giới diễn ra tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.
  • Nhu cầu tiền mặt tăng cao do tâm lý dự trữ tiền mặt cho những trường hợp cần thiết

Áp lực bán tháo đè nặng tại các nhóm ngành chủ chốt và nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn
Ngành đồ uống biến động tiêu cực nhất do chịu tác động kép từ nghị định 100/2019/NĐ-CP và ảnh hưởng của dịch bệnh. Nếu dựa trên mức độ ảnh hưởng lên VN-Index thì đà sụt giảm của thị trường được đóng góp chủ yếu bởi các ngành: Ngân hàng (VCB, BID), Dầu khí (GAS) và bất động sản phức hợp (VIC, VHM).


Khối ngoại có khuynh hướng rút khỏi thị trường. Các ETF bán ròng mạnh nhất kể từ 2016.


Tính từ đầu 2020 đến hết ngày 27/03, giá trị tích lũy của dòng vốn ngoại trên thị trường đã giảm 6.659 tỷ đồng. Trong đó, chỉ tính riêng trong tháng 3, khối ngoại đã bán ra 5.882 tỷ đồng.
So với các nước trong khu vực thì thị trường Việt Nam bị nước ngoài rút vốn khá mạnh trong tháng 3. Tuy nhiên, tính trong 03 tháng đầu năm thì giá trị quỹ bán ròng tại Việt Nam vẫn thấp hơn so với các nước đang ghi nhận những số liệu rủi ro hơn từ dịch covid-19 là Thái Lan và Malaysia.
Dưới áp lực các ETF thì các cổ phiếu trụ cột là đối tượng bị bán ra mạnh nhất trên HOSE. Dẫn đầu về giá trị bán ròng là các mã MSN, VIC, HPG, VCB… ở chiều mua, các mã được mua vào mạnh nhất là PHR, E1VFVN30, CTG và DGW.

II. Xu hướng trong đại dịch

VN-Index đã cắt sâu xuống dưới SMA 200 tuần lần đầu tiên kể từ 2013 đến nay báo hiệu xu hướng tăng dài hạn đã đảo chiều. Sàn HOSE đang bước vào giai đoạn thị trường con gấu trên cơ sở mở rộng xu hướng giảm sẵn có bắt đầu từ 2018. Mức dừng hiện tại của chỉ số tương ứng với mốc fibonacci 100,0% mở rộng cho đà giảm từ 2018 và VN-Index có thể sẽ mất nhiều tuần/tháng để có thể quay lại kiểm định vai trò kháng cự của SMA 200 tuần.
Vùng hỗ trợ gần cho VN-Index được xác định tại khu vực 600 – 650 điểm, tạo bởi Fibonacci mở rộng 127,2% tính cho đợt giảm bắt đầu từ 2018 và ngưỡng tâm lý hình thành trong suốt giai đoạn giằng co 2014 – 2016.
Vùng kháng cự gần cho VN-Index xác định tại khu vực 750 - 800 điểm, tương ứng mức hồi quy 38,2% tính cho biên độ giảm của chỉ số từ đầu 2020 đến hiện tại

Cơ hội sẽ đến trong các nhịp hồi kỹ thuật nhưng xu hướng giảm có thể sẽ vẫn chi phối trong trung hạn.
Những dấu hiệu tạo đáy vẫn chưa chắc chắn nhưng dựa trên thống kê dữ liệu thị trường cho thấy mức hoảng loạn của nhà đầu tư có thể đang ở vùng cực đại. Chỉ số Greed/Fear đo lường cho VN-Index đang lùi về vùng thấp trong dài hạn và trong lịch sử chỉ ghi nhận trạng thái này ở các đợt bán tháo lớn của thị trường vào các giai đoạn 2008 và 2018.
Trạng thái quá bán của tâm lý được kỳ vọng có thể sẽ mang đến các đợt hồi kỹ thuật mạnh mẽ sau đó như đã từng xảy ra tại các giai đoạn tương ứng. Cũng cần lưu ý rằng các đợt hồi phục này sẽ không đồng nghĩa với việc xu hướng sẽ đảo chiều. Thông thường xu hướng sẽ chỉ thực sự thay đổi khi vấn đề cốt lõi gây ra khủng hoảng tâm lý được giải quyết.

Với góc nhìn tích cực, thị trường có thể tạo đáy ngắn hạn trong quý 2 để làm tiền đề cho pha phục hồi kỹ thuật sau đó. Tình hình dịch bệnh tại Trung Quốc đã có dấu hiệu được kiểm soát sau 06 tuần cao điểm và các biện pháp mạnh tay đang được áp dụng tại các vùng tâm dịch trên thế giới, chúng tôi kỳ vọng dịch bệnh có thể được kiểm soát trước tháng 6/2020. Về kỹ thuật, tâm lý bi quan trên thị trường đang lùi về mức thấp hiếm hoi trong quá khứ và áp lực bán từ khối ngoại cũng đang có dấu hiệu giảm bớt. Nếu tín hiệu tạo đáy xuất hiện, một pha hồi kỹ thuật với mức biến động 35 - 40% của VN-Index sẽ là mục tiêu kỳ vọng ngắn hạn.

III. Triển vọng cho giai đoạn quý 2/2020

Các gói hỗ trợ kinh tế sẽ phát huy tác dụng nếu tình hình bệnh dịch có dấu hiệu suy giảm.
Trong bối cảnh dịch bệnh bùng phát và gây ảnh hưởng lớn tới tâm lý, chính phủ các nước đã đồng loạt đưa ra các gói cứu trợ nhằm ổn định tình hình và ngăn ngừa suy thoái kinh tế. Tại Việt Nam, Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19. Ngoài ra, ngay sau động thái hạ lãi suất của FED thì Ngân hàng nhà nước cũng đã đồng loạt giảm lãi suất điều hành nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh.
Lịch sử biến động của các thị trường chứng khoán cũng cho thấy tác dụng của các gói cứu trợ kinh tế về dài hạn là rõ rệt. Năm 2009, trong khi xu hướng suy thoái của thị trường Mỹ từ cuộc khủng hoảng tài chính vẫn chưa kết thúc thì nhà đầu tư đã phải đối mặt với sự bùng nổ của đại dịch H1N1. Để hỗ trợ nền kinh tế, ngày 18/03/2009, Fed đã tuyên bố mua 300 tỷ USD trái phiếu kho bạc dài hạn. Ngay sau đó, chỉ số Dow Jones cũng đảo chiều quay lại xu hướng tăng bất chấp tình hình dịch bệnh tại Mỹ phải kéo dài đến tháng 10/2009 mới thực sự được khống chế. Tại Việt Nam, trong đại dịch H1N1 năm 2009, sau khi phương án kích cầu 1 tỷ USD và gói hỗ trợ lãi suất tiền vay 4%/năm của nhà nước được đưa ra vào tháng 3/2009 thì thị trường chứng khoán cũng đã đảo chiều tăng trở lại và chính thức ngắt nhịp xu hướng giảm dài hạn bắt nguồn từ khủng hoảng 2008.
Diễn biến trong các kỳ khủng hoảng sẽ khác nhau và mức độ ảnh hưởng khó có thể tính toán nhưng chúng tôi kỳ vọng phản ứng tâm lý sẽ giống nhau sau khi các yếu tố gây bất ổn được kiểm soát.

Khối ngoại có thể tiếp tục bán ròng nhưng mức ảnh hưởng tới chỉ số sẽ chậm lại.
Dòng tiền ETF vẫn đang rút ra tại các thị trường mới nổi trong tháng 3 nhưng áp lực bán có dấu hiệu chậm lại trong 02 tuần gần đây. Đáng lưu ý là xu hướng giao dịch của các ETF có sự trái ngược tại thị trường Trung Quốc khi có khoảng 8,5 tỷ USD được đổ vào thị trường trong 02 tuần từ 16 – 27/03 sau khi tình hình dịch covid-19 tại quốc gia này có dấu hiệu được kiểm soát. Kỳ vọng tương tự có thể xuất hiện nếu Việt Nam tiếp tục kiểm soát tốt dịch bệnh như hiện nay bởi sự luân chuyển của dòng vốn có thể sẽ hướng tới các thị trường được đánh giá là an toàn và ổn định hơn.

Biến động theo nhóm ngành có thể phân hóa sau kỳ báo cáo KQKD quý 1/2020
Những thông tin về kết quả kinh doanh và mùa đại hội cổ đông diễn ra trong quý 2/2020 được kỳ vọng sẽ cung cấp cho nhà đầu tư đủ cơ sở để nhận diện những nhóm ngành tiềm năng sau khủng hoảng. Mức độ vay nợ thấp hoặc không trong giai đoạn mở rộng quy mô, hoặc hoạt động kinh doanh chính không quá phụ thuộc vào xuất khẩu có thể sẽ là những đặc điểm cơ bản của của nhóm ngành sẽ trụ vững trong khủng hoàng. Trong khi đó, khả năng phục hồi nhanh sau khủng hoảng sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào thời gian kéo dài của dịch bệnh, các gói hỗ trợ kinh tế và khả năng tận dụng đối với xu hướng giá giảm của các yếu tố đầu vào trong thời kỳ khủng hoảng…
Về kỹ thuật, dựa trên dấu hiệu biến động ngành trong tuần cuối tháng 3, chúng tôi nhận thấy sự hiện diện của lực cầu đối ứng đã xuất hiện ở các ngành sau: ngân hàng, bảo hiểm, công nghệ thông tin, xây dựng, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng thiết yếu và bất động sản phức hợp. Đây cũng có thể là cơ sở để tham chiếu cho việc lựa chọn mục tiêu xem xét.

Báo cáo chi tiết tại đường link:

Danh mục theo dõi: một số cổ phiếu đang ở vùng hỗ trợ dài hạn

Trong đợt giảm mạnh vừa qua của thị trường, một số cổ phiếu đầu ngành hiện đã giảm về vùng hỗ trợ của xu hướng tăng dài hạn. Chỉ báo RSI trên đồ thị tuần của các cổ phiếu này đang ở gần hoặc trong vùng quá bán khi giá đang ở vùng hỗ trợ, dấu hiệu cho thấy xu hướng giảm có khả năng sắp kết thúc. Nhà đầu tư có thể theo dõi những cổ phiếu này, có thể mua thăm dò 20%-30% số lượng dự kiến tại vùng hỗ trợ, tiến hành giải ngân nếu như giá tạo đáy thành công, và thị trường chung phục hồi.

1. Ngành Ngân hàng: CTG, BID

CTG đã giảm về vùng hỗ trợ 17.000 – 18.000 của xu hướng tăng dài hạn từ năm 2012

BID đã giảm về vùng hỗ trợ 30.800 trên đường xu hướng tăng từ năm 2017 và vùng đáy 2018-2019

2. Ngành Công nghệ thông tin: FPT

FPT đang ở vùng hỗ trợ 39.000 – 40.000 của xu hướng tăng dài hạn từ năm 2013

3. Ngành Điện: REE, PPC


REE đang ở gần vùng hỗ trợ 26.500 – 27.000 thuộc vùng đáy năm 2018. Giá cổ phiếu cũng ở gần vùng hỗ trợ 24.000 – 25.000 của xu hướng tăng dài hạn từ năm 2012

PPC đang ở gần vùng hỗ trợ 19.000 – 20.000 của xu hướng tăng từ năm 2016

5. Ngành Hàng tiêu dùng thiết yếu: MSN

MSN đang tích lũy trong vùng hỗ trợ 47.000 – 49.000 của xu hướng tăng dài hạn từ năm 2010.

Thứ Ba, 24 tháng 3, 2020

FPT - Cập nhật KQKD 2T.2020


CTCP FPT
Mã cổ phiếu
Nhóm ngành
Giá hiện tại
Giá mục tiêu
Khuyến nghị
FPT
Công nghệ
47.700
63.100
MUA

KẾT QUẢ KINH DOANH 2 THÁNG ĐẦU NĂM 2020

Doanh thu hợp nhất và LNTT lần lượt đạt 4.182 tỷ đồng và 698 tỷ đồng, tăng 18,4% yoy và 22,4% yoy hoàn thành lần lượt 12,9% và 12,7% kế hoạch về doanh thu và lợi nhuận trước thuế năm 2020. KQKD trên cho thấy FPT tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng bền vững.
  • Tỷ suất lợi nhuận được cải thiện so cùng kỳ, đạt 16,7% (năm 2019 đạt 16,1%).
  • Năm 2020, FPT kỳ vọng sẽ duy trì đà tăng trưởng lợi nhuận cao của năm 2019, trong đó khối công nghệ là động lực tăng trưởng chính của Tập đoàn với chiến lược chuyển đổi số.

Tóm tắt kết quả kinh doanh lũy kế
Thị trường nước ngoài mang về cho FPT 1.877 tỷ đồng doanh thu, tăng 26,4%, và 256 tỷ đồng LNTT, tăng 26,1% so với cùng kỳ. Tỷ trọng doanh thu và LNTT thị trường nước ngoài đóng góp vào kết quả hợp nhất của Tập đoàn đạt 45% và 37% (năm 2019 là 42% và 36%).
Kết quả kinh doanh theo khối
Khoản mục
Doanh thu
Lợi nhuận trước thuế
2T/2019
2T/2020
%yoy
%KH lũy kế
2T/2019
2T/2020
%yoy
%KH lũy kế
Dịch vụ CNTT nước ngoài
1.374
1.804
31,4%
103%
182
240
32,2%
102%
Dịch vụ CNTT trong nước
381
378
-0,7
94%
-10
-5
N/A
179%
Khối công nghệ
1.754
2.182
24,4%
101%
172
235
36,9
111%
Dịch vụ viễn thông
1.498
1.699
13,4%
97%
197
288
46,6%
111%
Quảng cáo trực tiếp
72
63
-12,7%
88%
29
24
-17,8%
76%
Khối viễn thông
1.569
1.762
12,3%
97%
226
313
38,2%
107%
Khối Giáo dục, đầu tư và khác
208
238
14,7%
88%
172
150
-12,8%
83%
Tổng cộng
3.531
4.182
18,4%
99%
570
698
22,4%
102%

Khối công nghệ: LNTT đạt 235 tỷ đồng, tăng trưởng 36,9%, chủ yếu đến từ thị trường nước ngoài. Trong khi đó, hoạt động Dịch vụ CNTT trong nước đi ngang.
Về Dịch vụ CNTT nước ngoài: Doanh thu và LNTT tăng 31,4% và 32,2% so với cùng kỳ. Tỷ suất LNTT đạt 13,3%, tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2019 (13,2%).
Doanh thu quốc tế của FPT tăng trưởng nhanh trên mọi thị trường. Trong 2 tháng đầu năm 2020, thị trường Châu Âu và thị trường APAC là điểm sáng khi lần lượt tăng trưởng ấn tượng 41% và 84% so với cùng kỳ. Thị trường Mỹ tăng trưởng tốt ở mức 38%. Thị trường Nhật Bản đạt tốc độ tăng trưởng 17%, tương đương năm 2019.

Khối viễn thông: Doanh thu đạt 1.762 tỷ đồng, tăng trưởng 12,3%, chủ yếu đến từ dịch vụ viễn thông.
Dịch vụ viễn thông: Ghi nhận doanh thu và LNTT lần lượt tăng 13,4% và 46,6% so với cùng kỳ. LNTT tăng trưởng cao trong năm 2020 là do lợi nhuận những tháng đầu năm 2019 thấp khi tăng chi phí khuyến mại, marketing. Doanh thu cung cấp dịch vụ internet băng thông rộng tới các cá nhân và hộ gia đình ghi nhận tăng trưởng 11,0% so với cùng kỳ, đạt 1.065 tỷ đồng nhờ tăng trưởng tốt số lượng thuê bao internet.

Dịch vụ quảng cáo trực tuyến: Doanh thu và LNTT lần lượt giảm -12,7% và -17,8% so với cùng kỳ.
Khối giáo dục: Tại thời điểm cuối tháng 2 năm 2020, tổng số học sinh khối giáo dục đạt xấp xỉ 46.000 học sinh, tăng 36% so với cùng kỳ năm 2019.
KẾ HOẠCH KINH DOANH NĂM 2020
Khối kinh doanh
Doanh thu
Lợi nhuận trước thuế
2019
2020
%yoy
2019
2020
%yoy
Khối công nghệ
15.783
18.800
19,1%
1.973
2.510
27,2%
Khối viễn thông
10.398
11.810
13,6%
1.808
2.022
11,8%
Khối Giáo dục, đầu tư và khác
1.535
1.840
19,9%
883
978
10,8%
Tổng cộng
27.707
32.450
17,1%
4.665
5.510
18,1%

Kế hoạch đầu tư
- Khối công nghệ: đầu tư xây dựng cơ bản đáp ứng nhu cầu văn phòng dài hạn với chi phí hợp lý; đầu tư R&D và hệ thống công nghệ thông tin cho mở rộng kinh doanh.
- Khối viễn thông: đầu tư hạ tầng viễn thông cho mở rộng kinh doanh; đầu tư tuyến trục Bắc Nam, tuyến cáp biến và trung tâm dữ liệu.
- Khối Giáo dục và khác: Đầu tư cơ sở giáo dục mới.

Chi phí đầu tư dự kiến năm 2020

Khối kinh doanh
Năm 2020
Khối Công nghệ
1.675
Khối Viễn thông
2.413
Khối Giáo dục và khác
622
Tổng đầu tư cho các hoạt động hiện tại
4.710

KHUYẾN NGHỊ
Với LNTT ước đạt 5.510 tỷ đồng, lợi nhuân sau thuế cổ đông công ty mẹ dự kiến đạt 3.600 tỷ đồng (+15% yoy), qua đó EPS dự phóng là 5.300 đồng/cp . Dựa trên mức P/E thị trường trả cho FPT 1 năm trở lại đây khi FPT công bố chiến lược chuyển đổi số là 11,9x Giá mục tiêu theo phương pháp P/E là 63.100 đồng/cp.

Thứ Tư, 18 tháng 3, 2020

REE - Cập nhật kế hoạch kinh doanh 2020


CTCP Cơ điện lạnh

Mã cổ phiếu
Nhóm ngành
Giá hiện tại
Giá mục tiêu
Khuyến nghị
REE
Đa ngành
30.300
36.550
MUA

HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TỪNG MẢNG VÀ KẾ HOẠCH 2020
Theo báo cáo thường niên, năm 2020, REE đặt kế hoạch doanh thu 5.965 tỷ đồng (+23% yoy) và lợi nhuận sau thuế đạt 1.620 tỷ đồng (-1,2% yoy). Cổ tức năm 2020 không thấp hơn 16% vốn điều lệ. Tinh hình kinh doanh và kế hoạch cụ thể từng mảng như sau:

1. Cơ điện lạnh (M&E)

REE M&E là nhà thầu cơ điện công trình hàng đầu tại Việt Nam với kinh nghiệm thi công M&E trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, thương mại và công nghiệp. REE M&E đóng vai trò chính trong nhóm cơ điện lạnh.
Chỉ tiêu
2019
2018
Thay đổi
KH 2020
2020 vs 2019
Tổng giá trị hợp đồng ký mới (tỷ VND)
2.375
3.572
-33,5%
2.800
17,9%
Sản lượng máy lạnh tiêu thụ (bộ)
27.847
36.507
-23,7%
35.000
25,7%
Doanh thu (tỷ VND)
3.173
3.427
-7,4%
3.820
20,4%
Lợi nhuấn sau thuế (tỷ VND)
245
243
0,8%
267
9,0%

Năm 2019, Thị trường xây dựng và bất động sản với nhiều thay đổi và điều chỉnh về thủ tục pháp lý đã ảnh hưởng trực tiếp đến mảng dịch vụ M&E: Qui trình cấp phép chậm, và số lượng dự án đang triển khai chủ yếu là căn hộ và condotel, nhưng một số dự án condotel cũng như chủ đầu tư dự án đang gặp khó khăn về thủ tục pháp lý, làm ảnh hưởng đến tiến độ. Do đó, doanh thu từ mảng M&E giảm 7% so với năm trước và đạt 88% kế hoạch. Giá trị hợp đồng ký được sụt giảm 33% so với năm trước đó và chỉ đạt 85% kế hoạch đề ra.

Năm 2020, hoạt động cơ điện lạnh đặt kế hoạch doanh thu 3.820 tỷ đồng (+20,4% yoy) và lợi nhuận sau thuế 267 tỷ đồng (+9% yoy).


2. Văn phòng cho thuê
Công ty REE Property là đơn vị kinh doanh và quản lý bất động sản cho thuê với diện tích văn phòng 150.000 m2
Chỉ tiêu
2019
2018
Thay đổi
KH 2020
2020 vs 2019
Doanh thu (tỷ VND)
852
638
33,5%
937
10,0%
Lợi nhuận sau thuế (tỷ VND)
395
250
58,0%
451
14,2%

Hoạt động cho thuê văn phòng đạt doanh thu 852 tỷ đồng (+33,5% yoy) và lợi nhuận sau thuế 395 tỷ đồng (+58% yoy) trong năm 2019, với tỷ lệ lắp đầy bình quân 98%. Kết quả lĩnh vực cho thuê văn phòng tăng trưởng mạnh và tổng diện tích cho thuê mở rộng nhờ vào việc cao ốc văn phòng E.town 5 hoàn thành đưa vào khai thác từ Quý 3/2019, tỷ lệ lấp đầy đạt 97%. Tỷ lệ cho thuê tòa nhà văn phòng E.town Central tại thời điểm 31/12/2019 đạt 100%.

Kế hoạch năm 2020, hoạt động văn phòng cho thuê đặt mục tiêu doanh thu 937 tỷ đồng (+10% yoy) và lợi nhuận sau thuế 451 tỷ đồng (+14,2% yoy).

Cuối năm 2020 REE sẽ hoàn thành thủ tục pháp lý và đầu năm 2021 sẽ khởi công xây dựng tòa nhà E.town 6 qui mô 7 tầng hầm 16 tầng cao, tổng diện tích xây dựng 88.000 m2 tại Khuôn viên Etown Cộng Hòa, dự kiến hoàn thành vào năm 2023, bổ sung khoảng 35.000 m2 văn phòng.

3. Phát triển bất động sản

Công ty REE Land, VIID và SaigonRes (Cty liên kết) hoạt động trong lĩnh vực phát triển các dự án bất động sản
Chỉ tiêu
2019
2018
Thay đổi
KH 2020
2020 vs 2019
Doanh thu (tỷ VND)
34
163
-79.1%
73
114.7%
Lợi nhuận sau thuế (tỷ VND)
66
172
-61.6%
108
63.6%

VIID và Saigonres không đạt được kỳ vọng phát triển dự định trong năm 2019 do nhiều thủ tục pháp lý ảnh hưởng đến tiến độ phát triển dự án. Lợi nhuận đạt được trong năm là nhờ chuyển nhượng dự án.

Năm 2020, hoạt động phát triển bất động sản đặt kế hoạch tăng trưởng đột biến với doanh thu 73 tỷ đồng (+114,7% yoy) và lợi nhuận sau thuế 108 tỷ đồng (+63,6% yoy).

4. Hạ tầng điện nước
Chỉ tiêu
2019
2018
Thay đổi
KH 2020
2020 vs 2019
Doanh thu (tỷ VND)
790
894
-11,6%
1.135
43,7%
Lợi nhuận sau thuế (tỷ VND)
976
1.097
-11,0%
794
-18,7%
Cổ tức nhận được (tỷ VND)
647
741
-12,7%

Ngành Điện ghi nhận Doanh thu 790 tỷ đồng trong năm 2019, giảm 5,3% so với năm 2018. Lợi nhuận sau thuế 813 tỷ đồng, giảm 14% so với năm 2018, do điều kiện thủy văn bất lợi, tình trạng khô hạn kéo dài, lượng nước về các hồ thấp nhất trong 30 năm trở lại đây, ảnh hưởng tiêu cực đến các nhà máy thủy điện; các Nhà máy nhiệt điện than luôn trong tình trạng thiếu than do TKV và Tổng Công ty than Đông Bắc không cung cấp đủ nguồn than sản xuât cho các nhà máy.

Ngành Nước ghi nhận Lợi nhuận sau thuế 163 tỷ đồng, tăng 6% so với năm 2018 do các nhà máy nước nguồn hoạt động ổn định; Nhà máy nước Sông Đà (VCW) hoàn thành đầu tư và nâng cấp cấc hạng mục tuyến ống, trạm điều tiết nâng sản lượng phát nước lên mức công suất phát nước thiết kế.
Cơ cấu danh mục đầu tư
2019
2018
Ngành
Tỷ VND
Tỷ trọng
Tỷ VND
Tỷ trọng
Điện
7,695
81%
5,565
79%
Nước
1,764
19%
1,487
21%
Tổng vốn đầu tư*
9,459
100%
7,052
100%
*Tổng vốn đầu tư theo phương pháp vốn chủ sở hữu. Tổng giá trị vốn hóa thị trường của danh mục tại thời điểm 31/12/2019 là 11.126 tỷ đồng

Trong năm 2020, mảng cơ sở hạ tầng điện và nước đặt kế hoạch doanh thu 1.135 tỷ đồng (+43,7% yoy) và lợi nhuận sau thuế 794 tỷ đồng (-18,6% yoy).

Các hoạt động đầu tư
Năng lượng mặt trời và gió
REE SE: Trong năm 2019, REE thành lập CTCP Năng lượng Mặt trời REE (REE SE), hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư hệ thống điện mặt trời mái nhà. REE SE đầu tư 100% chi phí dự án, bao gồm thiết kế kỹ thuật, cung cấp thiết bị, lắp đặt, vận hành và bảo trì dài hạn cho các hệ thống năng lượng mặt trời mái nhà. Mục tiêu đến hết 2021, REE SE sẽ đạt công suất 100 MWp. Trong Q4/2019, REE SE đã khởi công 05 dự án, tổng công suất 3,2 MWp. Trong đó đã có 02 dự án vận hành thương mại, đạt công suất 1,5 MWp, doanh thu 205 triệu đồng.

Dự án Nhà máy điện gió số 3 tại vị trí V1-3. Đây là dự án do REE làm chủ đầu tư và sở hữu 100%. Ngày 24/4/2019, REE được cấp giấy chứng nhận đầu tư từ Ban Quản lý khu kinh tế tỉnh Trà Vinh, chính thức triển khai dự án. Tính đến Q1/2020, Ban Quản lý dự án đã hoàn tất gần như toàn bộ các thủ tục pháp lý. Các hạng mục chính của nhà máy sẽ được triển khai thi công trong Q2/2020 và đóng điện vào tháng 9/2021.

CTCP Phong điện Thuận Bình (TBWP). TBWP hoạt động chính trong lĩnh vực đầu tư xây dựng các dự án Năng lượng tái tạo. TBWP đang sở hữu Nhà máy điện gió Phú Lạc công suất 24 MW tại tỉnh Bình Thuận. Dự án được tài trợ bởi Ngân hàng phát triển KfW (Đức) và phát điện thương mại từ tháng 9/2016. Đến cuối năm 2019, REE đã nâng tỷ lệ sở hữu tại TBWP lên 49,08%.

Thủy điện
CTCP Thủy điện Vĩnh Sơn – Sông Hinh (VSH – Cty liên kết).  VSH hiện đang xây dựng nhà máy thủy điện Thượng Kon Tum công suất 220 MW nằm ở bậc thang đầu tiên trên nhánh sông Đăk Nghé thượng nguồn sông Đăk Bla (một nhánh chính của sông Sê San) thuộc tỉnh Kon Tum, nâng tổng công suất sở hữu lên 356 MW. VSH dự kiến cung cấp cho hệ thống điện quốc gia khoảng 1,7 tỷ kWh hàng năm khi Thượng Kon Tum vận hành vào tháng 7/2020.

TÁI CẤU TRÚC MÔ HÌNH QUẢN TRỊ
Tại đại hội cổ đông sắp tới, REE dự kiến trình cổ đông thông qua việc tái cấu trúc mô hình quản trị, chuyển sang mô hình công ty Holdings. Công ty đang hoạt động theo mô hình Nhóm công ty, theo đó Công ty mẹ là REE Corporation quản lý trực tiếp 12 công ty thành viên và các khoản đầu tư tại 19 công ty liên danh, liên kết. Ban lãnh đạo cho biết cách tổ chức hiện tại không phản ánh đầy đủ KQKD, hiệu quả và tiềm năng sinh lời từng mảng hoạt động, dẫn tới các hạn chế về huy động vốn và phát triển đầu tư.

HĐQT REE đề xuất tái cấu trúc hoạt động kinh doanh của REE Corporation theo mô hình công ty Holdings. Các hoạt động kinh doanh của REE Corporation sẽ phân vào 4 Holdings chính để quản lý theo từng ngành riêng biệt. Các Holdings chính là các công ty do REE sở hữu 100% hoặc chiếm đa số được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp.

Mô hình công ty Holdings
Các Holdings trong mô hình mới có những ưu điểm sau:
  • Linh động huy động vốn cho từng ngành riêng biệt;
  • Dễ dàng hợp tác kinh doanh, nghiên cứu phát triển (R&D) ở cấp ngành;
  • Niêm yết theo từng cấp công ty (nếu cần);
  • Nhà đầu tư và cổ đông có thể đánh giá tiềm năng ở mỗi ngành kinh doanh;
  • Giá trị tiềm năng của REE Corporation - công ty mẹ được phản ánh đầy đủ;
  • Dễ dàng quản trị công ty chuyên nghiệp hơn và minh bạch.


Giao dịch của cổ đông lớn
Ngày 17/03/2020, bà Nguyễn Thị Mai Thanh - Chủ tịch HĐQT Tổng Giám đốc CTCP Cơ Điện Lạnh (HOSE: REE) đã đăng ký mua 15 triệu cp REE nhằm tăng tỷ lệ sở hữu thông qua phương thức thỏa thuận hoặc khớp lệnh với thời gian giao dịch dự kiến từ ngày 18/03 - 17/04/2020. (Chi tiết)

Trước đó, ngày 13/3/2020, cổ đông lớn nhất của REE là Platinum Victory Pte. Ltd cũng vừa đăng ký mua vào hơn 3 triệu cp REE với thời gian giao dịch dự kiến từ ngày 19/03 - 17/04/2020 (Chi tiết)

KHUYẾN NGHỊ
Với lợi nhuận sau thuế năm 2020 ước tính đạt 1.620 tỷ đồng, EPS dự phóng của REE là 5.225 đồng/cp. Với P/E là 7x (mức trung bình của REE trong 3 năm gần nhất), giá trị hợp lý của REE là 36.575 đồng/cp ~ 36.550 đồng/cp.

Hiện giá cổ phiếu đang thấp hơn giá trị thực 20.6%, thấp hơn giá trị sổ sách 10,7% (BVPS = 33.530 đồng/cp), và lợi suất cổ tức trên 5%, cho thấy REE đang ở mức định giá hấp dẫn. Với hoạt động kinh doanh mang lại dòng tiền ổn định, cổ tức được chia đều đặn, và triển vọng tăng trưởng bền vững trong tương sau khi hoàn thành tái cấu trúc mô hình kinh doanh, nhà đầu tư được khuyến nghị tiếp tục mua tích lũy REE cho mục tiêu trung và dài hạn.